Khách mời tham dự Tọa đàm gồm: Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; Tiến sĩ Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế; Tiến sĩ Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh; ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng điều phối chương trình Tọa đàm.
Thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, luôn có sự chủ động trong dự báo, kịp thời chuyển hướng điều hành phù hợp với diễn biến thực tế ở mỗi giai đoạn, thời điểm khác nhau. Nhờ đó, dù trong hoàn cảnh khó khăn, chúng ta đã thực hiện được mục tiêu về kiểm soát lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng cũng như bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Tại Toạ đàm, các chuyên gia đều khẳng định phản ứng chính sách của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rất đúng đắn, sáng suốt, kịp thời, phản ánh đúng hoàn cảnh, điều kiện cho phép, nhu cầu của nền kinh tế; điều quan trọng là dung lượng phù hợp.
Các chuyên gia cũng đánh giá rất cao nỗ lực của Chính phủ trong phối hợp chính sách tài khoá, quyết sách cắt giảm thủ tục, chi phí và cải cách thủ tục hành chính. Tiếp theo, thực thi cũng là yếu tố quyết định; tập trung thúc đẩy để thực thi, giảm ngắn nhất độ trễ chính sách để phát triển nhanh hơn...
Điều chỉnh chính sách phù hợp, kịp thời
Tiến sĩ Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính-tiền tệ Quốc gia đánh giá: chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thời gian qua sát với tình hình cả quốc tế và trong nước. Chúng ta nhớ rằng, điều kiện quốc tế và trong nước trong 2 năm vừa qua có rất nhiều biến động và nhiều yếu tố gọi là "đa khủng hoảng" xảy ra.
Tiến sĩ Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính-tiền tệ Quốc gia tại buổi Toạ đàm. (Ảnh: VGP) |
Chúng ta đã có những điều chỉnh về mặt chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng phù hợp với bối cảnh, với thời điểm và mức độ. Rõ ràng, bây giờ chúng ta cần thay đổi chính sách phù hợp để phục hồi và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù vậy, chúng ta nới lỏng nhưng linh hoạt, tức là vẫn bảo đảm mục tiêu ổn định được kinh tế vĩ mô; đồng thời phối hợp đồng bộ hơn với các chính sách khác, trong đó có chính sách tài khóa, giải ngân vốn đầu tư công và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thì chúng ta mới bảo đảm được thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra.
Theo Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Phan Đức Hiếu đánh giá, chính sách tiền tệ theo tinh thần Nghị quyết phiên họp thường kỳ tháng 6 là phù hợp: phù hợp với cả bối cảnh của Việt Nam và thời điểm; rất nhiều điểm cũng học tập kinh nghiệm thế giới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Điểm đầu tiên phù hợp ở đây là phù hợp với nguyên tắc chung là kết hợp, phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ; tùy vào từng thời điểm, chúng ta sẽ sử dụng nhiều hơn công cụ tài khóa hay sử dụng nhiều hơn công cụ tiền tệ.
Ông Phan Đức Hiếu đưa ra thí dụ, ở thời điểm chúng ta xây dựng Nghị quyết 43, chúng ta hình dung gần như các hoạt động kinh tế xã hội ngừng. Rõ ràng chính sách tiền tệ trong bối cảnh đó sẽ phát huy hiệu quả phải gọi là rất thấp.
Chúng ta sử dụng tại thời điểm đó khi mà chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài khóa nới lỏng là phù hợp.
Hiện nay, bối cảnh đã hoàn toàn thay đổi, lao động, sản xuất, kinh doanh ở chừng mực nào đó phục hồi nhưng có thể thay đổi trạng thái và khó khăn của doanh nghiệp hiện nay, khó khăn về vốn, về dòng tiền là rất rõ.
Hai là dư địa về mặt tài khóa của chúng ta đã thay đổi so với trước đây. Như vậy là phù hợp ở thời điểm hiện tại cả về nguyên tắc chung trong điều hành cũng như bối cảnh thực tế, gọi là dư địa vĩ mô để thực hiện các chính sách này.
Đại biểu Quốc hội Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. (Ảnh: VGP) |
Ông Phan Đức Hiếu cho biết, trong Nghị quyết của về phiên họp Chính phủ thường kỳ vừa qua, Chính phủ chỉ đạo rất rõ ràng, có rất nhiều con số. Ở đây chúng ta nhìn thấy, thứ nhất là "nới lỏng", "linh hoạt" được sử dụng thay cho "chặt chẽ", "chắc chắn".
Thứ hai, phấn đấu giảm ít nhất khoảng 1,5-2% lãi suất đã có. Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cũng đã được xác định đâu đó 11%. Rõ ràng điều này rất cần thiết cho xã hội. Chúng ta cũng nhìn thấy ở đây nữa là dư địa, ta gọi là tính lâu dài ổn định của chính sách, đã bắt đầu xuất hiện. Chúng ta biết rằng, một trong các điểm thành công của Nghị quyết 128/NQ-CP cuối năm 2021 về thích ứng linh hoạt dịch Covid-19 đó là tính dài hạn và tiên đoán được.
Lần này chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đã được xác định ít nhất là cho đến cuối năm nay, những thông điệp đưa ra vừa có tính rõ ràng vừa có thời hạn nào đó về mặt thời gian, về dài hạn để doanh nghiệp có thể tiên liệu trước được, chuẩn bị các kịch bản, kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Ngoài việc chúng ta nới lỏng chính sách tiền tệ thì trong này Chính phủ cũng nêu đến việc gia cố sự an toàn của hệ thống ngân hàng, xử lý dứt điểm những vấn đề phát sinh, rồi củng cố nền tảng của ngân hàng. Thậm chí có những giải pháp, ông Phan Đức Hiếu lấy thí dụ như rất thận trọng trong cung cấp tiếp tín dụng cho một số đối tác đang có dư nợ tín dụng trước đây.
Ổn định kinh tế vĩ mô là quan trọng nhưng hiện nay bối cảnh tạo điều kiện cho chúng ta có những chuyển hướng chính sách, cả về chính sách tài khóa và tiền tệ mà về cơ bản, hướng vào việc hỗ trợ tăng trưởng.
Tiến sĩ Võ Trí Thành
Như vậy rõ ràng là lần này Nghị quyết của Chính phủ xử lý rất phù hợp nhưng đồng thời có rất nhiều điểm thay đổi trong điều hành chính sách: "Cụ thể, rõ ràng, có thể tiên liệu trước được và đồng bộ, vừa tiền tệ vừa kết hợp yếu tố để đảm bảo an toàn".
Theo Tiến sĩ Võ Trí Thành, ổn định kinh tế vĩ mô là quan trọng nhưng hiện nay bối cảnh tạo điều kiện cho chúng ta có những chuyển hướng chính sách, cả về chính sách tài khóa và tiền tệ mà về cơ bản, hướng vào việc hỗ trợ tăng trưởng.
Thí dụ, chúng ta nói đến nới lỏng chính sách tiền tệ, giảm lãi suất, tăng cung tiền. Đối với chính sách tài khóa, có điểm khác biệt là vấn đề liều lượng, là tương quan giữa rủi ro và liều lượng (liều lượng quá mức thì tăng rủi ro). Thế nhưng, hiện nay chúng ta đều thống nhất là chính sách tài khóa có dư địa còn khá lớn, nhất là lĩnh vực đầu tư công mà chúng ta hay nói "có tiền mà không tiêu được".
Vừa qua, Thủ tướng có nêu rõ mục tiêu giải ngân hơn 710.000 tỷ đồng đầu tư công trong năm nay là phấn đấu đạt 95%. Về nợ công so mức trần mà Quốc hội đề ra thì hiện nay dư địa còn lớn.
Tiến sĩ Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh. (Ảnh: VGP) |
Đối với chính sách tiền tệ, câu chuyện liều lượng bao nhiêu là vừa thì hiện còn nhiều ý kiến khác nhau. Về lãi suất, như chúng ta phân tích, cũng như mục tiêu của Chính phủ là lãi suất có thể giảm từ 1-1,5 điểm phần trăm từ nay đến cuối năm. Chính sách tiền tệ có thể nới lỏng nhưng về nguyên tắc quản trị thì không thể để "đồng tiền dễ dãi".
Ông Võ Trí Thành khẳng định lại là còn dư địa nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ lãi suất; đồng ý với ý kiến các chuyên gia là lãi suất không phải liều thuốc vạn năng mặc dù rất quan trọng, mà cần kết hợp với nhiều chính sách khác như kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ người lao động, kích cầu du lịch, đầu tư công, giải quyết khó khăn cho xuất khẩu; tạo điều kiện để người dân và doanh nghiệp tiếp cận vốn tốt hơn (có gói hỗ trợ tín dụng mà không ảnh hưởng lớn đến tổng cung tiền, hướng đến các lĩnh vực như nhà ở xã hội, lâm thủy sản...).
Tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế
Từ khía cạnh cộng đồng doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI): việc chuyển hướng chính sách tiền tệ từ "chặt chẽ, chắc chắn" đến nay sang hướng "linh hoạt, nới lỏng" hơn trong bối cảnh để hướng tới nhiều mục tiêu phát triển là rất đúng trong yêu cầu hiện nay, rất đúng với nhu cầu.
Ông Đậu Anh Tuấn hình dung việc đúng này như là “các mảnh ruộng đang khô hạn” và Chính phủ đang cố gắng tạo “nguồn nước để tưới cho các mảnh ruộng này”. Bởi, hoạt động kinh doanh thì cần vốn, vốn với doanh nghiệp như trồng trọt cần nước vậy. Khi bị thiếu nước thì rõ ràng nông nghiệp không thể phát triển, giống như doanh nghiệp thiếu vốn thì chắc chắn gặp khó khăn.
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). (Ảnh: VGP) |
Nếu nhìn trong cả năm 2022 vừa rồi, chúng ta thấy rằng riêng dòng vốn đối với doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, trước hết là dòng vốn từ trái phiếu là khó. Sau một thời gian bùng nổ, một phần nào đấy cũng do kiểm soát chưa tốt nên chúng ta điều chỉnh lại, dẫn đến tình trạng đóng băng và hầu như huy động vốn dài hạn từ trái phiếu rất khó.
Trong khi ấy, những khó khăn dồn dập khác từ thị trường thế giới đến nữa: Đơn hàng giảm, nhiều hoạt động kinh doanh khó khăn, doanh nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, vay vốn ngân hàng thì lãi suất rất cao... Trong giai đoạn vừa rồi, lãi suất có giai đoạn mười mấy %, mà đối với hoạt động kinh doanh bình thường thì mười mấy % đã khó chứ chưa nói đến tích lũy và phát triển.
"Chính vì thế, giải pháp hiện tại ưu tiên tập trung vào chính sách tiền tệ theo hướng kéo mặt bằng lãi suất xuống và tăng cung tiền để làm sao tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vay vốn theo chúng tôi là chính sách rất trúng và rất cần thiết. Ngân hàng Nhà nước đã nhiều lần giảm lãi suất điều hành", ông Đậu Anh Tuấn nhấn mạnh.
Trong nhiều cuộc họp từ đầu năm đến nay, Thủ tướng Chính phủ liên tục thúc ép, đưa ra thông điệp về việc cố gắng giảm mặt bằng lãi suất xuống, hoàn toàn phù hợp với nhu cầu doanh nghiệp, bởi vì có vốn thì những doanh nghiệp xuất khẩu mới thuận lợi.
Hiện nay, đối với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu ở nhiều ngành hàng, việc có vốn để quay nhanh dòng hàng, để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, rồi mở mang mặt bằng, mở mang hoạt động kinh doanh cũng cần vốn. Cho nên tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí hợp lý, rẻ hơn là một quyết sách đúng đắn.
Hiện tại, nhiều doanh nghiệp cho biết vay được vốn rẻ vẫn đang rất khó khăn. Cho nên làm sao những chính sách tiền tệ như thế này phải đi nhanh được vào thực tiễn và làm sao doanh nghiệp có thể vay vốn được với lãi suất hợp lý để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi những con số kinh tế trong 6 tháng đầu năm cho thấy bức tranh về kinh doanh, về doanh nghiệp rất đáng lo ngại.
Nếu doanh nghiệp không duy trì được hoạt động, không tăng trưởng được thì chắc chắn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế - một mục tiêu quan trọng, chắc chắn ảnh hưởng đến lao động, việc làm, chắc chắn ảnh hưởng đến thu ngân sách, và về dài hạn thì ảnh hưởng đến sự tồn tại của doanh nghiệp; đang có chiều hướng cho thấy những yếu tố này có xu hướng giảm.
Hiện tại, nhiều doanh nghiệp cho biết vay được vốn rẻ vẫn đang rất khó khăn. Cho nên làm sao những chính sách tiền tệ như thế này phải đi nhanh được vào thực tiễn và làm sao doanh nghiệp có thể vay vốn được với lãi suất hợp lý để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đánh giá chúng ta còn dư địa cả chính sách tiền tệ lẫn chính sách tài khóa. Tiến sĩ Cấn Văn Lực cho rằng, chính sách tài khóa rất quan trọng là nguồn thu cho ngân sách nhà nước thì có vẻ đang giảm, nhưng chúng ta đang còn dư địa, kể cả nợ công lẫn nợ nước ngoài... Tóm lại điều kiện cần là có dư địa chính sách thì chúng ta đã có.
Về liều lượng, tất cả các chuyên gia hôm nay đều thống nhất với nhau là liều lượng hiện nay là tương đối phù hợp. Về phối hợp chính sách, nếu chúng ta dồn dập quá vào chính sách tiền tệ chưa chắc đã đạt hiệu quả cao, nó phải đồng bộ các chính sách khác mới đảm bảo mức độ thẩm thấu của chính sách tốt hơn.
VCCI đã khảo sát dòng vốn cho đầu tư tổng xã hội của chúng ta thì tín dụng ngân hàng chiếm khoảng 50%, cộng với trái phiếu doanh nghiệp chiếm khoảng 15%, thì suy ra việc giảm mặt bằng lãi suất sẽ là giảm lãi suất cho 65% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, rất quan trọng để lượng hóa. Đương nhiên rất quan trọng đối với câu chuyện chi phí hoạt động của doanh nghiệp.
Một điểm nữa là chúng ta đồng ý với nhau là phải có độ trễ chính sách; nhưng Thủ tướng Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước mong muốn độ trễ đó ngắn hơn, thông thường là 2-3 tháng nhưng giờ chỉ khoảng 1-2 tháng, nhanh nhất có thể thì mới kịp thời.
Vấn đề nữa là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ra thông điệp rõ ràng là cố gắng giảm mặt bằng giảm lãi suất từ 1,5-2% cho đến cuối năm. Ông đánh giá đây là một thông điệp rất mạnh dạn, rất rõ, cụ thể.
Thực tế thời gian qua ngân hàng cũng đã giảm lãi suất, VCCI thống kê được lãi suất huy động đầu vào giảm bình quân khoảng từ 1-1,2%, lãi suất cho vay cũng giảm mức độ tương tự. Bây giờ chúng ta tiếp tục phấn đấu để giảm tiếp lãi này theo chỉ đạo của Chính phủ. Điều này phù hợp và khả thi trong thời gian tới.
Ông Đậu Anh Tuấn nêu rõ, giảm lãi suất chỉ là 1 vế của vấn đề, điều kiện cần thôi. Điều kiện đủ là khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp mới quan trọng. Các chuyên gia ở đây cũng đã ngồi với nhau bàn làm thế nào tăng cả cung và cầu.
Phía cầu là chúng ta giảm lãi suất rồi, phía cung là tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế, cho doanh nghiệp. Ông Tuấn cho rằng cần rất nhiều giải pháp đồng bộ.
"Tôi rất đồng tình là trước hết phải giải quyết được sự trì trệ của bộ máy công-viên chức thì mới giải quyết được nhiều vấn đề pháp lý, thủ tục hành chính", ông Tuấn nói.
Điều quan trọng nữa, phải khơi thông cả những kênh dẫn vốn khác, bởi vì kênh dẫn vốn trái phiếu doanh nghiệp rất quan trọng. Nếu chúng ta khơi thông được chỗ này thì rõ ràng dòng vốn trung và dài hạn sẽ khá nhiều. Chúng ta lưu ý một điểm là giảm lãi suất cũng không thể giảm quá nhiều, quá mạnh, quá nhanh được. Nếu chúng ta giảm của doanh nghiệp, quan sát trong 2 tháng vừa rồi, chúng tôi thấy một số dòng tiền đã bắt đầu dịch chuyển từ kênh tiết kiệm riêng tư sang kênh chứng khoán.
Như vậy vẫn phải bảo đảm một mức độ hấp dẫn nhất định để dòng tiền tiếp tục vào ngân hàng, ngân hàng có thanh khoản cho vay, bảo đảm nguồn vốn đi vào kinh doanh thay vì chỉ đầu tư tài chính hay tồn kho bất động sản như thời gian vừa qua; phải đồng bộ chính sách như vậy thì mới đảm bảo mức độ thẩm thấu, việc giảm lãi suất, nới lỏng chính sách tiền tệ mới có hiệu quả...