Đồng thuận xã hội và phản biện xã hội
Đồng thuận xã hội và phản biện xã hội là những nhân tố, điều kiện góp phần tạo nên sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ này trong thực tế hiện vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra.
1. Quan niệm đồng thuận xã hội, phản biện xã hội
Đồng thuận xã hội là sự đồng tình cả nhận thức và hành động của đại đa số thành viên trong xã hội về một hoặc một số vấn đề nào đó nhằm đạt đến mục đích chung. Xã hội vốn là một phức hợp những mối quan hệ nhiều chiều của cá nhân và cộng đồng nên đồng thuận xã hội luôn có nội dung đa dạng, phong phú, phức tạp. Xã hội càng đa dạng thì nhu cầu về sự đồng thuận ngày càng cao. Đồng thuận xã hội là điều kiện khách quan cho sự ổn định và phát triển bền vững của mỗi hệ thống xã hội.
Đồng thuận xã hội được xây dựng trên các cơ sở chủ yếu sau đây: Thứ nhất, sự thống nhất vềlợi ích chunggiữa các thành viên xã hội.Lợi ích chính là sợi dây kết dính các thành viên trong cộng đồng xã hội lại với nhau. Bản chất của đồng thuận xã hội là đồng thuận về lợi ích giữa các thành viên, do đó, phương thức để tạo ra đồng thuận xã hội là tìm kiếm sự đồng thuận vì lợi ích chung. Thứ hai, sựtự nguyện nhất trí, tự giác gắn kếtgiữa các thành viên xã hội. Sự tự nguyện, tự giác có được bằng thảo luận công khai, rộng rãi, từ đó đạt được sự đồng thuận cao. Giữa đồng thuận xã hội và dân chủ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mức độ đồng thuận xã hội tỷ lệ thuận với mức độ của dân chủ trong xã hội. Dân chủ bị vi phạm không những không tạo được sự đồng thuận đích thực, mà còn tiềm ẩn khả năng dẫn đến xung đột xã hội. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, dân chủ chỉ có thể thực hiện được khi dân đã thực sự là chủ và có đủ năng lực làm chủ. Thứ ba, tôn trọng vàthừa nhận nhữngsự khác biệt. Những khác biệt, thậm chí cả những đối lập trong xã hội được xem là những “cái đơn nhất” của mỗi “cái riêng” trong mối liên hệ với “cái chung” tạo nên tính đa dạng, phong phú, phức tạp của đời sống xã hội. Một nhà nước pháp quyền với yêu cầu coi trọng pháp luật, thượng tôn quyền con người, quyền công dân cần coi những khác biệt, đối lập này là một tất yếu khách quan trong sự vận động và phát triển xã hội. Những quan điểm khác biệt, đối lập nếu biết khai thác có thể trở thành một kênh phản biện xã hội tích cực.
Phản biện xã hội là sự biện luận, thẩm định, đánh giá của các lực lượng xã hội đối với những chủ trương, chính sách, đề án, dự án xã hội... liên quan đến lợi ích của mọi thành viên trong xã hội nhằm phát hiện, bổ sung, chứng minh, khẳng định hoặc bác bỏ, phủ định một chủ trương, chính sách hay đề án xã hội đang hình thành hay đã công bố. Phản biện xã hội về thực chất là sự phản biện của các tầng lớp nhân dân đối với chủ trương, chính sách của chủ thể cầm quyền. Nhân dân phản biện xã hội với hai tư cách. Một tư cách là chủ thể quyền lực và một tư cách là đối tượng chịu sự quản lý của quyền lực nhà nước. Nhân dân thực hiện chức năng phản biện xã hội là làm sáng tỏ đúng - sai những vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng (quốc kế, dân sinh), giúp nhà nước điều chỉnh chính sách công phù hợp với lợi ích chung. Như vậy, bản chất phản biện xã hội là thực hành dân chủ trong đời sống chính trị- xã hội. Thực hiện phản biện xã hội sẽ bảo vệ được những lợi ích vật chất, tinh thần chính đáng cho số đông. Đồng thời, nó còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc, phản ánh một mối quan hệ chính trị rất cơ bản: quan hệ giữa nhà nước với nhân dân trong thể chế chính trị dân chủ. Phản biện xã hội có chất lượng sẽ có tác động tích cực đối với sự phát triển xã hội.
Đồng thuận xã hội và phản biện xã hội nếu nhìn nhận một cách đơn giản dường như là hai hoạt động xã hội trái chiều nhau. Nhưng nếu xem đồng thuận xã hội và phản biện xã hội như là một hình thức biểu hiện của sự “thống nhất” và “đấu tranh” giữa các mặt đối lập thì có thể coi phản biện xã hội là một cấp độ biểu hiện “sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập” của xã hội mà bản chất của nó là giữ cho xã hội có được trạng thái cân bằng; là hướng đến đảm bảo sự tồn tại của chế độ xã hội với “sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập” trong sự tự vận động và phát triển theo quy luật của nó.
Qua phản biện xã hội, các chủ thể lãnh đạo - quản lý sẽ điều chỉnh, hoàn thiện chủ trương, chính sách nhằm tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội để thực thi những chủ trương, chính sách ấy một cách hiệu quả. Vì vậy, phản biện xã hội là một phương thức quan trọng để đạt đồng thuận xã hội. Đó chính là phương thức tạo nên cơ chế tự điều chỉnh của một hệ thống xác định, tạo nên thế “cân bằng động” cho sự “ổn định” để phát triển. Không có phản biện xã hội thì không có dân chủ, không có dân chủ thực sự thì không thể có đồng thuận xã hội thực sự.
Đồng thuận xã hội - hiểu một cách đầy đủ, bao hàm cả sự đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, xây dựng và tăng cường đồng thuận xã hội cũng chính là quá trình không ngừng phát hiện và giải quyết các mâu thuẫn xã hội dựa trên cơ sở những điểm tương đồng nhằm đạt được sự thống nhất vì mục tiêu chung. Phản biện xã hội để khắc phục những bất đồng về tư tưởng, quan điểm, lợi ích và hành động giữa các lực lượng xã hội nhằm đi đến sự thống nhất chung, tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Đồng thuận xã hội chính là mục đích của phản biện xã hội.
2. Đồng thuận xã hội và phản biện xã hội ở Việt Nam - thực trạng, vấn đề đặt ra và kiến nghị
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã đặc biệt chú trọng chữ “đồng”. Người luôn tìm kiếm, phát hiện và khơi dậy những “cái đồng”, kể cả trong “cái dị” với quan điểm thêm bạn, bớt thù. Chữ “đồng” được Người sử dụng với nội dung hết sức phong phú, sinh động. Người viết: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”; “Biết đồng sức/Biết đồng lòng/Việc gì khó/Làm cũng xong”(1). Người cũng chỉ rõ: “Sử ta dạy ta bài học này: /Lúc nào dân tộc ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. /Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”(2). Với nguyên tắc: Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, Người chủ trương: đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết lâu dài với tất cả những ai có thể đoàn kết được vì mục tiêu chung. Nhờ vậy, đã tập hợp được sức mạnh to lớn của sự đồng thuận xã hội, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc.
Nhận thức được tầm quan trọng của đồng thuận xã hội và phản biện xã hội trong quá trình phát triển đất nước hiện nay, Đảng ta đã đưa ra chủ trương xây dựng sự đồng thuận xã hội, tăng cường giám sát và phản biện xã hội để thực hiện mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thuận xã hội là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và đồng bào định cư ở nước ngoài, xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau. Với ý nghĩa đó, đồng thuận xã hội, phản biện xã hội hiện nay không chỉ được xem là động lực mà còn là mục tiêu, không phải là sách lược mà là một chiến lược của Đảng.
Trên con đường tìm kiếm sự đồng thuận vì lợi ích chung, có một số trở ngại không nhỏ phải vượt qua. Bởi lẽ, xã hội vốn là một thực thể không thuần nhất về nhận thức, địa vị, quan điểm, tư tưởng, tín ngưỡng, nhu cầu, lợi ích của các thành viên, nên trên thực tế, không thể tạo được một sự đồng thuận tuyệt đối. Vậy, hiểu và xác định mức độ đồng thuận như thế nào là đúng và là đủ không phải dễ.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, dân chủ đang bị lợi dụng ở nhiều dạng thức khác nhau. Với chủ thể quyền lực (nhân dân), do chưa ý thức đầy đủ vị thế là chủ và chưa có đủ năng lực làm chủ nên thường bị mất quyền sau khi trao quyền, không có đầy đủ thông tin nên đánh giá vấn đề theo cảm tính và hay hùa theo trạng thái tâm lý xã hội, dễ dàng tin theo một dư luận xã hội nào đó dù chưa được kiểm chứng để rồi lợi dụng dân chủ, “phản kháng” theo kiểu tự phát dẫn đến tình trạng vừa thừa dân chủ (dân chủ quá trớn) vừa thiếu dân chủ (dân chủ bị vi phạm). Với người được ủy quyền (lãnh đạo, quản lý), do nhận thức không đúng về vị trí, thẩm quyền của mình đã lạm quyền, lộng quyền - tha hóa quyền lực do không được kiểm soát, giám sát, phản biện kịp thời nên ngày càng xa dân. Nguy hiểm hơn, họ thường nhân danh Đảng, nhân danh Nhà nước, nhân danh lợi ích chung, dùng những tấm bình phong đó mưu cầu lợi ích riêng nên rất khó nhận diện.
Là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta hiện nay, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, gắn bó mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chức năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; thực hiện dân chủ XHCN, tăng cường đồng thuận trong xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giám sát và phản biện xã hội; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; thực hiện và mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện phản biện xã hội, xây dựng đồng thuận xã hội hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế, Mặt trận chưa thật sự thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, tổ chức Mặt trận chưa đáp ứng được kỳ vọng của nhân dân.
Để thực hiện phản biện xã hội, xây dựng đồng thuận xã hội, theo chúng tôi, cần phải:
Một là, hoàn thiện cơ chế để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp có thể làm tốt chức năng phản biện xã hội.
Để phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quốc hội cần sớm ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phù hợp với tinh thần Hiến pháp 2013. Đó là căn cứ pháp lý quan trọng nhất để Mặt trận và các thành viên của mình thực hiện quyền, nghĩa vụ trong đời sống chính trị - xã hội.
Quan hệ giữa Mặt trận và Nhà nước là quan hệ phối hợp nhưng kinh phí hoạt động của Mặt trận do Nhà nước cấp, điều đó rất khó để Mặt trận thực hiện chức năng phản biện của mình đối với Nhà nước và cán bộ, công chức trong cơ quan Nhà nước. Do đó, cần luật hóa về kinh phí để Mặt trận có nguồn tài chính độc lập, đủ hoạt động.
Hai là, quan hệ lợi ích bao giờ cũng vẫn là vẫn đề cốt lõi, nhạy cảm nhất trong các mối quan hệ. Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, các khuynh hướng, lực lượng xã hội trong quá trình hoạch định chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phải được xem là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt để tạo đồng thuận xã hội. Xử lý mối quan hệ này hiện nay, phải bằng phương thức tăng cường phản biện xã hội tích cực. Muốn phản biện xã hội tích cực thì phải có cơ chế giám sát hiệu quả. Trước mắt, cần hình thành và mở rộng các diễn đàn để mọi người có điều kiện trao đổi, thương lượng, đàm phán, thỏa thuận để đi đến thống nhất về tư tưởng và hành động. Từ đó, dần dần tạo ra cơ chế đảm bảo quyền tự do, quyền bình đẳng, tạo nên thói quen phản biện xã hội cho mọi người dân. Thông qua phản biện xã hội, chủ thể lãnh đạo có trách nhiệm lắng nghe một cách nghiêm túc, chân thành những ý kiến, kể cả những ý kiến trái chiều của cấp dưới, của quần chúng nhân dân. Đây cũng là một kênh giúp chủ thể lãnh đạo hiểu thấu tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
Ba là, hiệu quả củanhững cải cách chính trị được đánh giá bằng việc các thành viên trong xã hội tự ý thức được giới hạn lợi ích cá nhân trong quan hệ với lợi ích chung.Nhà nước với tư cách là cơ quan công quyền xác định rõ giới hạn của các quan hệ lợi ích đó bằng những quy định pháp lý cụ thể làm căn cứ cho mọi công dân tuân thủ; tăng cường sự đồng bộ trong toàn hệ thống chính trị; các mối quan hệ lợi ích được chú trọng và giải quyết hài hòa; ngăn chặn quan liêu, tham nhũng. Thành quả của cải cách chính trị tự nó sẽ làm tăng thêm sự đồng thuận xã hội. Tất cả các thành tố và quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị theo chiều ngang, chiều dọc (Đảng - Nhà nước - các tổ chức chính trị - xã hội, Trung ương - địa phương), quan hệ giữa cá nhân lãnh đạo, quản lý, cán bộ, công chức với nhân dân; quan hệ giữa hệ thống cơ chế vận hành với hệ thống các nguyên tắc hoạt động… đều phải được củng cố và hoàn thiện. Tập trung vào cải cách Nhà nước, lấy cải cách hành chính và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm khâu đột phá. Những công việc cải cách quan trọng và phức tạp đó rất cần có phản biện xã hội tích cực, thực chất để các chủ thể lãnh đạo xác định mục tiêu, cách thức, lộ trình thích hợp.
Bốn là, quan điểm lấy dân làm gốc, lấy lợi ích căn bản của đại đa số nhân dân làm điểm xuất phát, phải được thể hiện thiết thực bằng mở rộng và thực thi có hiệu quả dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, bằng những cơ chế, quy định cụ thể, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Có dân chủ thực chất từ trong Đảng ra ngoài xã hội mới động viên, phát huy tính chủ động, sáng tạo, sức mạnh vật chất, tinh thần của cả chủ thể lãnh đạo lẫn quần chúng nhân dân, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và củng cố mối quan hệ đoàn kết toàn dân tộc.
Năm là, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động, giáo dục để các giai cấp, tầng lớp nhân dân, các lực lượng xã hội tự nguyện thống nhất với nhau về các vấn đề cơ bản, vì mục tiêu và lợi ích chung của đất nước. Những hình thức tuyên truyền, vận động, giáo dục kiểu “áp đặt”, “một chiều”, lý thuyết suông, nói mà không làm, nói một đường làm một nẻo… đã trở nên sáo mòn, kém hiệu quả, đôi khi mất tác dụng. Cán bộ lãnh đạo nêu gương bằng những việc làm thiết thực vì dân là cách tuyên truyền hiệu quả nhất. Việc nâng cao văn hóa chính trị, khuyến khích văn hóa từ chức trong cán bộ, đảng viên cần phải được tiến hành song song với tăng cường pháp chế. Phát hiện và xử lý nghiêm minh tất cả những hành vi vi phạm pháp luật của mọi cá nhân và tổ chức là cách thiết thực nhất để xây dựng lại niềm tin, tạo đồng thuận xã hội.
Sáu là, có thái độ khách quan, khoa học trong việc nhận thức, phân tích và xử lý những quan điểm, tư tưởng lệch lạc, sai trái trong nhân dân. Trong khi xã hội tồn tại nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau, đúng sai chưa phân định rõ ràng, cần tránh biểu hiện quy chụp, nâng quan điểm đối với những ý kiến “bị cho là trái chiều” do đụng chạm đến lợi ích cá nhân chủ thể lãnh đạo. Cần xây dựng chế tài đủ sức răn đe, trừng trị với những cán bộ lãnh đạo lộng quyền, lạm quyền, ức hiếp quần chúng, đồng thời phải có chế tài đủ để bảo vệ những người tích cực trong phản biện xã hội, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, hủ bại. Tích cực, chủ động hơn nữa trong việc giải quyết các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xử lý dứt điểm, công khai, minh bạch những khiếu kiện từ cơ sở. Giải quyết mâu thuẫn nên chú trọng thực hiện bằng các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2014
(1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 229, 232, 217.
TS Nguyễn Thị Tâm
Học viện Chính trị Khu vực III
- Cảnh giác với chiêu trò mạo danh "phản biện xã hội" nhằm chống phá cách mạng Việt Nam
- Phản bác luận điệu xuyên tạc chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hóa
- Phản biện xã hội và vai trò của phản biện xã hội ở Việt Nam hiện nay
- Cảnh giác trước chiêu trò lợi dụng phản biện xã hội để chống phá
- Sàng lọc đảng viên - khó cũng phải làm
- Nâng “chất” giám sát, phản biện xã hội
- Giám sát, phản biện xã hội sớm từ cơ sở
- Nhận diện "giặc nội xâm" lãng phí
- Giám sát, phản biện xã hội sớm từ cơ sở