Nhà máy điện gió số 7 tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. (Ảnh TRUNG HIẾU)
Nhà máy điện gió số 7 tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. (Ảnh TRUNG HIẾU)

Phát thải CO2 sẽ đạt đỉnh vào giai đoạn 2031-2035 ở mức 231 triệu tấn, sau đó giảm dần để đến năm 2045 giảm xuống khoảng 175 triệu tấn (giảm khoảng 208 triệu tấn CO2 so với phương án trước COP 26).

Đến năm 2050, ước tính phát thải CO2 từ lĩnh vực sản xuất điện chỉ còn khoảng 40 triệu tấn/năm, góp phần quan trọng trong việc đáp ứng cam kết của Việt Nam về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Tăng tỷ lệ điện “sạch”

Việt Nam là quốc gia luôn chủ động và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế đối với các vấn đề toàn cầu, nhất là trong nhiệm vụ chống biến đổi khí hậu. Điều này được khẳng định qua sự tham gia, cam kết mạnh mẽ của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về chống biến đổi khí hậu (COP 26). “Cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 cũng như tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch là định hướng quan trọng của Việt Nam hướng tới nền kinh tế carbon thấp, tăng trưởng xanh trong những thập kỷ tới”, Thứ trưởng Công thương Đặng Hoàng An cho biết.

Ông Rahul Kitchlu - Điều phối viên Chương trình Phát triển hạ tầng, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đánh giá, Việt Nam đã chuyển mình thành công từ một trong những quốc gia có thu nhập thấp nhất thế giới thành một nền kinh tế năng động mới nổi. Lĩnh vực năng lượng đóng vai trò quan trọng cho quá trình chuyển đổi kinh tế này. Nhưng phát triển về kinh tế và năng lượng vẫn cho thấy sự phụ thuộc lớn vào nguồn nhiên liệu hóa thạch và nhất là than, từ đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, khiến Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tỷ lệ khí thải gây hiệu ứng nhà kính trên đầu người tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

Để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch năng lượng nhằm đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0, theo đề xuất của ông R. Kitchlu, Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển năng lượng tái tạo. Theo tính toán, khoảng 370GW năng lượng tái tạo có thể được tạo ra thêm từ nay đến năm 2040 để giúp đất nước giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.

Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu về phát triển năng lượng tái tạo với tổng công suất hơn 20GW cũng như đã huy động khoảng 17 tỷ đô-la đầu tư tư nhân vào lĩnh vực này trong hai năm qua. Đây là một nỗ lực đáng ghi nhận, là những bước đi nghiêm túc hướng tới đẩy mạnh chuyển dịch năng lượng sạch và loại bỏ carbon khỏi nền kinh tế. Tuy nhiên, để tiếp tục duy trì sự tăng trưởng của năng lượng tái tạo, cần cải tiến trong việc hoạch định, mở rộng hệ thống năng lượng cũng như khung pháp lý đối với việc mua bán điện để bảo đảm nguồn cung có chi phí thấp.

Những chính sách, hàng rào thương mại đã góp phần vào sự phát triển nhanh chóng của năng lượng tái tạo nên được thay thế bởi cơ chế dựa trên cạnh tranh một cách hệ thống và minh bạch, từ đó giúp mang đến các dự án năng lượng tái tạo từ nguồn vốn tư nhân hoạt động hiệu quả với chi phí thấp, giúp đáp ứng nhu cầu năng lượng của Việt Nam một cách bền vững. Ngoài ra, song song với sự phát triển nhanh chóng của nguồn năng lượng tái tạo đòi hỏi phải tăng cường đầu tư vào lưới điện. Cuối cùng, việc sử dụng năng lượng hiệu quả cũng rất quan trọng, là phương án có chi phí phù hợp cho Việt Nam trong chuyển dịch năng lượng.

Huy động hiệu quả các nguồn lực

 

Cục trưởng Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công thương) Hoàng Tiến Dũng cho biết, ngày 8/10/2021, trước khi diễn ra Hội nghị COP 26, Bộ Công thương đã trình Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII). Trong đó, các nguồn nhiệt điện trong cơ cấu nguồn đến năm 2045 vẫn chiếm tỷ lệ khá cao, khoảng 36-41% công suất và 56-66% sản lượng điện. Tuy nhiên, cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị COP 26 đã thay đổi hoàn toàn quan điểm phát triển điện lực Việt Nam. Quy hoạch điện VIII đã hiệu chỉnh lại toàn bộ phương án phát triển điện lực trong tương lai.

Cụ thể, so phương án cũ, đến năm 2045, công suất nguồn điện than giảm khoảng 23.400MW; công suất nguồn điện sử dụng LNG giảm khoảng 24.350MW. Trong khi đó, điện mặt trời tăng 33 nghìn MW, điện gió trên bờ tăng khoảng 23 nghìn MW và điện gió ngoài khơi tăng 28.500MW,... Nhờ việc phát triển mạnh mẽ năng lượng tái tạo và chuyển đổi nhiên liệu của các nhà máy nhiệt điện, lượng phát thải CO2 của phương án phát triển điện lực rà soát sau Hội nghị COP 26 cũng giảm mạnh. “Dẫu còn nhiều khó khăn và thách thức trong bảo đảm cung ứng điện cho phát triển kinh tế-xã hội và thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP 26, nhưng chắc chắn xu hướng chuyển dịch năng lượng xanh là không thể đảo ngược”, ông Dũng khẳng định.

Theo các chuyên gia, song song với việc nâng cao tỷ lệ năng lượng tái tạo, cần phát triển công nghệ lưu trữ năng lượng gồm pin tích năng, thủy điện tích năng, trữ nhiệt và lưới điện thông minh, bảo đảm độ ổn định cũng như tích hợp năng lượng tái tạo trong hệ thống điện với tỷ lệ cao. Các dự án năng lượng mới không phát thải cũng cần được phát triển như sản xuất nhiên liệu hydro xanh, amoniac xanh,... Để hiện thực hóa các mục tiêu về chuyển đổi năng lượng, theo Thứ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc, cần tính toán kỹ lưỡng lộ trình chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Quá trình chuyển dịch năng lượng cần giảm đến mức thấp nhất tác động tới các nhóm và đối tượng dễ bị tổn thương, trong đó đặc biệt lưu ý tác động tăng giá điện đối với hộ nghèo cũng như việc chuyển đổi, mất việc làm của người lao động trong ngành, lĩnh vực liên quan năng lượng hóa thạch. Trong quá trình triển khai chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững, chúng ta cần thực thi hiệu quả việc đánh giá, kiểm tra, giám sát và các chế tài liên quan để hạn chế, cắt giảm đầu tư; có lộ trình thay thế, đóng cửa cơ sở sản xuất ô nhiễm, hạ tầng phát thải nhiều carbon.

Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc, trong chuyển đổi năng lượng và hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 như đã cam kết, vấn đề lớn nhất chính là nguồn lực thực hiện. Kết quả tính toán cho thấy, đến năm 2050, Việt Nam cần có thêm khoản đầu tư khoảng 100 tỷ USD cho thích ứng biến đổi khí hậu và khoảng 373 tỷ USD để đưa mức phát thải về 0. Do đó, quá trình chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững muốn thành công cần phải có sự cam kết hỗ trợ về mặt tài chính/kỹ thuật thật sự từ các quốc gia phát triển.

Phó Cục trưởng Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) Phạm Văn Tấn cho biết: Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị COP 26 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã bao gồm nhiều chính sách để huy động nguồn lực thực hiện. Theo đó, kinh phí được bố trí từ nguồn ngân sách nhà nước theo quy định cũng như từ nguồn xã hội hóa, nguồn huy động từ các tổ chức, cá nhân và các nguồn kinh phí hợp pháp khác. Ngoài ra, sẽ tập trung huy động hợp tác hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển, các quỹ và các định chế tài chính trong nước, quốc tế; khuyến khích đầu tư từ khu vực tư nhân vào các dự án phát triển carbon thấp; đồng thời, thúc đẩy phát triển thị trường carbon trong nước nhằm tăng thêm nguồn đầu tư cho phát triển carbon thấp.

Ông R. Kitchlu chia sẻ, mặc dù phía trước còn nhiều thách thức, song cộng đồng quốc tế cam kết sẽ hỗ trợ Việt Nam thực hiện thành công việc chuyển dịch năng lượng xanh. Về phần mình, WB luôn sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong nỗ lực chuyển dịch năng lượng. “Chúng tôi luôn sẵn sàng chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm quốc tế, cũng như giúp huy động các nguồn vốn chi phí thấp dành cho biến đổi khí hậu để hỗ trợ các bạn trong quá trình đầu tư và nâng cao năng lực, giúp Việt Nam thực hiện chuyển dịch năng lượng xanh hiệu quả, bảo đảm nguồn cung năng lượng ổn định với chi phí phù hợp cho người dân”, ông R. Kitchlu khẳng định.