Triển khai cuộc kiểm toán chưa từng có tiền lệ, kiến nghị xử lý trên 3.400 tỷ đồng
v Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán “Việc huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng chống dịch COVID-19 và các chính sách hỗ trợ”. Đây là cuộc kiểm toán chưa có tiền lệ, được Kiểm toán nhà nước tập trung nguồn lực để kiểm toán ngay từ đầu năm triển khai trên phạm vi toàn ngành với quy mô lớn, thực hiện kiểm toán tại 09 Bộ, cơ quan Trung ương và 32 tỉnh, thành.
Giảm 28 cuộc kiểm toán năm 2021 trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp
Kiểm toán nhà nước (KTNN) vừa tổ chức họp báo công bố Báo cáo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2021, kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán năm 2020 của KTNN; Báo cáo kiểm toán chuyên đề “Việc huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid -19 và các chính sách hỗ trợ”.
Phát biểu khai mạc, Phó Tổng Kiểm toán nhà nước Hà Thị Mỹ Dung cho biết, năm 2021, KTNN đã tổ chức thực hiện kiểm toán với 234 Báo cáo kiểm toán, trong đó thực hiện kiểm toán tại 18 Bộ, cơ quan Trung ương; 45 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương; 04 chủ đề kiểm toán hoạt động; 21 chuyên đề; 43 dự án đầu tư; Ngân hàng Nhà nước và 22 , tổ chức Tài chính Ngân hàng; 22 đầu mối lĩnh vực quốc phòng, an ninh, các cơ quan đảng và kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN năm 2020 tại Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
Việc thực hiện Kế hoạch kiểm toán năm 2021 diễn ra trong bối cảnh dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, nhiều hoạt động kinh tế - xã hội bị ngưng trệ, ảnh hưởng nặng nề tới hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực.
Tổng Kiểm toán nhà nước đã có nhiều văn bản chỉ đạo điều hành kịp thời để điều chỉnh phương án tổ chức kiểm toán đảm bảo ưu tiên tối đa cho hoạt động phòng, chống dịch COVID-19 theo đúng tinh thần lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Trong đó, KTNN đã điều chỉnh giảm 28 cuộc kiểm toán tương ứng với 38 Đoàn kiểm toán; giảm thời gian kiểm toán và đầu mối đơn vị được kiểm toán. “Được sự quan tâm phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành, địa phương và đơn vị được kiểm toán, với sự cố gắng nỗ lực của toàn Ngành, KTNN đã hoàn thành KHKT năm 2021” - Phó Tổng Kiểm toán nhà nước cho biết.
Phó Tổng Kiểm toán nhà nước Hà Thị Mỹ Dung phát biểu khai mạc
Triển khai cuộc kiểm toán chưa có tiền lệ trên phạm vi toàn ngành
Phó Tổng Kiểm toán nhà nước cũng cho biết, trong kế hoạch kiểm toán 2022, UBTV Quốc hội giao KTNN thực hiện kiểm toán “Việc huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng chống dịch Covid-19 và các chính sách hỗ trợ”.
Đây là cuộc kiểm toán chưa có tiền lệ, được KTNN tập trung nguồn lực để kiểm toán ngay từ đầu năm triển khai trên phạm vi toàn Ngành với quy mô lớn, thực hiện kiểm toán tại 09 Bộ, cơ quan Trung ương và 32 tỉnh, thành.
Qua kết quả kiểm toán cho thấy: Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, về cơ bản các Bộ, ngành, địa phương và người dân đã tổ chức triển khai, thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch quyết liệt, kịp thời và hiệu quả, do đó đến nay đại dịch COVID-19 đã được kiểm soát.
Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai thực hiện, còn tồn tại, hạn chế trong việc ban hành một số văn bản hướng dẫn, chỉ đạo phòng chống dịch và các chính sách hỗ trợ, và công tác huy động, lập, phân bổ, quản lý, sử dụng vắc xin; quản lý, sử dụng máy móc, trang thiết bị y tế; tiếp nhận và sử dụng các nguồn viện trợ, tài trợ và công tác thu dịch vụ xét nghiệm…
Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Vũ Ngọc Tuấn trình bày tóm tắt Báo cáo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2021, kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán năm 2020 của KTNN
Kiến nghị hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới 198 văn bản
Trình bày tóm tắt Báo cáo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán năm 2021, kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán năm 2020 của KTNN, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Vũ Ngọc Tuấn cho biết, tổng hợp kết quả kiểm toán từ 234 Báo cáo kiểm toán (BCKT) của 177 cuộc kiểm toán tổ chức trong năm 2021 đối với niên độ ngân sách năm 2020, KTNN đã kiến nghị xử lý tăng thu giảm chi NSNN 25.396,3 tỷ đồng, xử lý khác 41.567,4 tỷ đồng; kiến nghị hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới 198 văn bản.
Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã chuyển 01 vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan Cảnh sát điều tra; cung cấp 265 hồ sơ, báo cáo kiểm toán và tài liệu cho liên quan cho các cơ quan của Quốc hội, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cơ quan điều tra và các cơ quan Nhà nước khác có thẩm quyền để phục vụ công tác giám sát, kiểm tra, điều tra.
Qua kết quả kiểm toán cho thấy: Dự toán thu - chi NSNN năm 2020 đã bám sát kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020; Kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020; đảm bảo thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ chi NSNN trong năm, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Chỉ số nợ công đến cuối năm 2020 nằm trong giới hạn được cho phép của Quốc hội, không quá 65% GDP; Bội chi NSNN bằng 3,44% GDP thực hiện, thấp hơn so với mức 5,41% GDP theo Nghị quyết số 128/2020/QH14; Việc thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia trong năm 2020 nói riêng và giai đoạn 2016-2020 nói chung đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận qua đó góp phần cải thiện đáng kể môi trường an sinh, xã hội.=
Kết quả kiểm toán Báo cáo tài chính và các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn Nhà nước năm 2020 của 73 Doanh nghiệp thuộc 16 Tập đoàn, Tổng công ty và Công ty. Kết quả kiểm toán cho thấy 15/16 Tập đoàn, Tổng công ty, Công ty được kiểm toán sản xuất kinh doanh có lãi.
Bên cạnh đó, Báo cáo kiểm toán cũng chỉ rõ, trong công tác quản lý, điều hành, sử dụng tài chính, tài sản công của các đơn vị được kiểm toán cũng còn bộc lộ tồn tại, hạn chế. Theo đó, KTNN đã kiến nghị chấn chỉnh kịp thời, kiến nghị cấp có thẩm quyền hoàn thiện cơ chế, chính sách cho phù hợp với thực tiễn.
Về kết quả kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán năm trước: Đối với việc thực hiện kiến nghị kiểm toán đối với niên độ ngân sách năm 2019, các đơn vị được kiểm toán đã chỉ đạo và thực hiện nghiêm túc các kết luận, kiến nghị của KTNN, trong đó đến 31/12/2021: Xử lý tài chính tăng thu, giảm chi NSNN được thực hiện 14.677,08 tỷ đồng, đạt 80%; xử lý khác được thực hiện 28.648,13 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 66,1%; 44/205 văn bản đã được Chính phủ, các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương thực hiện hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung theo kiến nghị của KTNN; 52/98 Báo cáo kiểm toán có kiến nghị kiểm điểm đã được các đơn vị thực hiện.
Đối với việc thực hiện kiến nghị kiểm toán đối với niên độ ngân sách năm 2018 trở về trước, các đơn vị được kiểm toán đã tiếp tục thực hiện thêm các kiến nghị đạt 9.359,98 tỷ đồng (trong đó tăng thu, giảm chi NSNN 1.931,8 tỷ đồng); số kiến nghị tăng thu, giảm chi NSNN chưa thực hiện đến 31/12/2021 còn 28.933,2 tỷ đồng; số văn bản KTNN kiến nghị trong giai đoạn 2016-2019 đã được các cơ quan chức năng thực hiện lũy kế đến 31/12/2021 là 237/667 văn bản, tăng thêm 111 văn bản so với báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán hàng năm.
Kiểm toán trưởng KTNN Chuyên nghành III Lê Tùng Lâm trình bày tóm tắt Báo cáo kiểm toán Chuyên đề
Kiến nghị xử lý tài chính trên 3.400 tỷ đồng chuyên đề kiểm toán COVID-19
Trình bày tóm tắt Báo cáo kiểm toán chuyên đề “Việc huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid -19 và các chính sách hỗ trợ” (Chuyên đề), Kiểm toán trưởng KTNN Chuyên nghành III Lê Tùng Lâm cho biết, thực hiện nhiệm vụ Quốc hội giao, KTNN xác định cuộc kiểm toán Chuyên là nhiệm vụ quan trọng cần ưu tiên thực hiện nên đã tập trung nguồn lực để tổ chức kiểm toán ngay từ đầu năm. Cuộc kiểm toán được triển khai trên phạm vi toàn ngành với quy mô lớn, thực hiện kiểm toán tại 09 Bộ, cơ quan Trung ương và 32 tỉnh, thành. BCKT Chuyên đề này đã được gửi kịp thời đến Quốc hội, các Đại biểu quốc hội tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV.
Theo đó, tổng nguồn lực đã huy động cho công tác phòng, chống dịch COVID-19 đến 31/12/2021 là 376.217 tỷ đồng, ngoài ra ngân sách Nhà nước còn hỗ trợ các địa phương 142.017,3 tấn gạo; tổng số phân bổ, sử dụng giai đoạn 2020-2021 là 351.177 tỷ đồng. Cơ bản nguồn lực toàn xã hội (chủ đạo là nguồn lực Nhà nước) đã được phân bổ, các đơn vị quản lý, sử dụng kịp thời, phục vụ đắc lực cho công tác phòng, chống dịch.
Các chính sách hỗ trợ được triển khai đồng bộ, quyết liệt từ Trung ương đến địa phương, cơ bản phù hợp thực tiễn trong từng giai đoạn, qua đó kịp thời tháo gỡ khó khăn, góp phần phục hồi sản xuất, kinh doanh, giảm thiểu tác động gây sốc, tiêu cực của đại dịch, đảm bảo an sinh xã hội.
Về chính sách thuế: Đã gia hạn, giảm thu từ các gói hỗ trợ chính sách thuế năm 2020 là 111.080 tỷ đồng, năm 2021 là 72.116 tỷ đồng; chính sách hỗ trợ từ lĩnh vực hải quan không thu là 201 tỷ đồng (thuế GTGT 193 tỷ đồng, thuế nhập khẩu 7,9 tỷ đồng); miễn thuế nhập khẩu đối với mặt hàng phục vụ phòng chống dịch viêm đường hô hấp cấp 63,3 tỷ đồng.
Về chính sách tín dụng: Đến cuối năm 2021, tổng giá trị nợ lũy kế đã miễn, giảm lãi giữ nguyên nhóm nợ là 91.400 tỷ đồng, trong đó tiền lãi đã miễn, giảm giữ nguyên nhóm nợ là 1.108 tỷ đồng/469.159 khách hàng, tương đương mức miễn giảm lãi bình quân 2.361.673 đồng/khách hàng; giảm lãi suất cho vay 57.724 tỷ đồng, trong đó giảm cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là 36.811 tỷ đồng.
Chính sách hỗ trợ an sinh xã hội và phục hồi kinh tế đã giải ngân từ nguồn NSNN: Năm 2020 thực hiện Nghị quyết số 42/NQ-CP hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là 14.023 tỷ đồng; năm 2021 thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP đã hỗ trợ người dân 13.964,6 tỷ đồng.
Hỗ trợ từ nguồn kết dư Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp theo Nghị quyết số 116/NQ-CP bằng tiền cho 12.868.602 lao động với tổng số 30.834,6 tỷ đồng, thực hiện giảm mức đóng BHTN cho 346.664 đơn vị, tương ứng 11.393.272 lao động với số tiền giảm 2.149,9 tỷ đồng.
Bên cạnh kết quả quan trọng đã đạt được, ngoài những sai phạm, tiêu cực đã và đang được các cơ quan chức năng tập trung, quyết liệt xử lý theo quy định của pháp luật, qua kiểm toán Chuyên đề, KTNN chỉ rõ một số tồn tại, hạn chế:
Về công tác huy động, phân bổ nguồn lực: Có cơ quan, đơn vị chưa thực hiện đầy đủ quy định trong việc huy động các nguồn kinh phí, việc tổng hơp số liệu huy động chưa đầy đủ, số báo cáo giữa các đơn vị tại một số nơi chưa đồng nhất; một số đơn vị lập dự toán chưa đầy đủ cơ sở, căn cứ; phân bổ, giao dự toán chưa kịp thời, chưa sát thực tế, chưa đúng nhu cầu hoặc giao kinh phí phòng chống dịch khi chưa sử dụng hết nguồn kinh phí kết dư dự phòng; nguồn lực huy động bằng tiền, bằng hàng hóa được thực hiện trong thời gian ngắn, chưa có hướng dẫn, tiêu thức, phương án phân bổ phù hợp...
Công tác quản lý và sử dụng các nguồn lực phòng, chống dịch còn một số vấn đề: Việc xây dựng kế hoạch tiêm chủng tại một số địa phương chưa sát thực tế, chưa ưu tiên sử dụng các lô vắc xin cận hạn; chưa bao quát đầy đủ đối tượng được ưu tiên; chưa thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo kết quả, số lượng, hồ sơ tiêm chủng định kỳ và cập nhật số mũi tiêm lên hệ thống nền tảng quản lý tiêm chủng.
Các đơn vị đã mua sắm sinh phẩm, hóa chất, kit test xét nghiệm với các mức giá khác nhau; việc mượn, mua vật tư, kit test, sinh phẩm xét nghiệm từ các nhà cung cấp với nhiều hình thức khác nhau như có hoặc không có văn bản thỏa thuận, có hoặc không có hợp đồng, đơn giá, phương án hoàn trả; kit test viện trợ hết hạn sử dụng phải tiêu hủy; một số đơn vị chưa thống kê, kiểm kê, theo dõi đầy đủ, chính xác số lượng nhập, xuất, tồn; việc hạch toán, lập, quản lý, lưu giữ hồ sơ, tài liệu liên quan như chứng từ phân bổ, kế hoạch xét nghiệm, phiếu nhập, xuất, danh sách cấp phát… còn hạn chế.
Chi cho lực lượng tuyến đầu chống dịch còn tình trạng chi trùng đối tượng, không đúng đối tượng, không đúng định mức, không đúng quy định chứng từ thanh toán chưa đầy đủ theo quy định...; Chi thanh toán khám, điều trị bệnh nhân Covid-19 cách ly (F0, F1) trùng đối tượng, không đúng đối tượng, không đúng định mức, không đúng quy định; chứng từ thanh toán chưa đầy đủ theo quy định; chi trả cho các đối tượng cách ly y tế chưa kịp thời...
Đối với trang thiết bị y tế: Việc xác định giá trị để hạch toán, theo dõi, quản lý tài sản theo chế độ kế toán và xác lập quyền sở hữu toàn dân đối với các thiết bị được tài trợ, trao tặng chưa được thực hiện đầy đủ do khó khăn trong việc tập hợp được hồ sơ, tài liệu, chứng từ liên quan; một số đơn vị chưa kịp thời tiếp nhận, quản lý, sử dụng thiết bị được phân bổ, tài trợ; điều chuyển, cho mượn các thiết bị y tế khi chưa báo cáo và quyết định của cấp có thẩm quyền...
Đối với thuốc, vật tư, sinh phẩm khác: Một số đơn vị chưa theo dõi, tách bạch việc sử dụng vật tư từ các nguồn và giữa hoạt động phòng, chống dịch và hoạt động thường xuyên của bệnh viện; chưa theo dõi đầy đủ, khớp đúng số liệu số nhập xuất tồn của một số vật tư, công cụ dụng cụ. Việc phân bổ một số loại thuốc chưa căn cứ trên nhu cầu sử dụng dẫn đến tồn kho, hết hạn, hoặc phải điều chuyển cho đơn vị khác...
Việc tiếp nhận và sử dụng các nguồn viện trợ, tài trợ bằng tiền chưa đầy đủ, chặt chẽ, sử dụng kinh phí mua sắm trang thiết bị phục vụ phòng, chống dịch chưa kịp thời; Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam các cấp chưa phân phối, sử dụng kịp thời các khoản hỗ trợ dẫn đến tồn quỹ cuối năm lớn; một số nội dung chi chưa có văn bản trao đổi, thống nhất với Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 của địa phương; chi chưa đúng nội dung và đối tượng hỗ trợ theo quy định; được phân bổ kinh phí mua sắm thiết bị, vật tư y tế hoặc hỗ trợ cho các lực lượng tham gia phòng, chống dịch nhưng còn sử dụng sang việc khác; MTTQ một số tỉnh chưa nộp về Trung ương ...
Về thu dịch vụ xét nghiệm: Một số địa phương chưa ban hành đơn giá xét nghiệm, mức giá đặt hàng từ NSNN đối với giá dịch vụ xét nghiệm làm cơ sở quyết toán; chưa kịp thời xây dựng cơ cấu giá cho các dịch vụ xét nghiệm mà áp dụng mức thu theo đơn giá tối đa của Bộ Y tế hoặc HĐND tỉnh hướng dẫn; đưa vào cơ cấu giá một số nội dung không có trong quy định hoặc cao hơn định mức của Bộ Y tế ban hành; xây dựng mức giá test nhanh mẫu gộp 2, gộp 3, khi chưa có hướng dẫn của Bộ Y tế, chưa trình HĐND và UBND tỉnh phê duyệt; chưa kịp thời điều chỉnh đơn giá xét nghiệm khi có hướng dẫn mới của Bộ Y tế, có cơ sở y tế áp dụng đơn giá xét nghiệm khi chưa được HĐND tỉnh ban hành; tham mưu ban hành hoặc ban hành giá lấy mẫu, trả kết quả test nhanh chưa đúng thẩm quyền quy định; ban hành văn bản quy định đối tượng xét nghiệm chưa phù hợp theo quy định; một số cơ sở y tế thu cao hơn mức quy định của Bộ Y tế; chưa thực hiện thu dịch vụ xét nghiệm theo thực thanh thực chi mà thực hiện theo đơn giá ban hành trước đó của Bộ Y tế hoặc HĐND tỉnh; thu dịch vụ xét nghiệm không đúng đối tượng quy định 15,3 tỷ đồng; thu của người bệnh các chi phí sẽ được NSNN quyết toán liên quan đến việc lấy mẫu, trả kết quả xét nghiệm...
Đánh giá về các chính sách hỗ trợ, KTNN chỉ rõ, việc ban hành một số văn bản hướng dẫn, chỉ đạo phòng chống dịch và các chính sách hỗ trợ còn chưa đầy đủ, kịp thời, sát thực tiễn, chưa dự báo hết được diễn biến khó lường, phức tạp của dịch bệnh nên chưa bao quát và theo kịp với diễn biến dịch… gây khó khăn, lúng túng trong tổ chức thực hiện, ảnh hưởng đến việc triển khai các chính sách hỗ trợ. Có chính sách sử dụng hết số kinh phí dự kiến, thậm chí có chính sách phải chờ bổ sung nguồn để chi song cũng có những chính sách thực hiện đạt rất thấp so với dự kiến.
Thông qua công tác kiểm toán, KTNN đề nghị Bộ trưởng các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong điều kiện đã chuyển sang trạng thái bình thường mới, cần chỉ đạo các đơn vị có liên quan tập trung kiểm tra, rà soát để chấn chỉnh, khắc phục kịp thời những tồn tại, hạn chế hoặc xử lý theo quy định của pháp luật đối với những sai phạm đã được KTNN chỉ ra trong Báo cáo kiểm toán tổng hợp và trong Báo cáo kiểm toán Chuyên đề tại từng Bộ, ngành, địa phương được kiểm toán; đồng thời nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách còn bất cập và rút ra những bài học kinh nghiệm, trong đó: Xử lý tài chính với tổng số tiền trên 3.431 tỷ đồng; Xử lý tài chính khác với tổng số tiền trên 3.358 tỷ đồng; Chấn chỉnh công tác huy động, phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn lực phòng, chống dịch; Xác định trách nhiệm tập thể, cá nhân để xử lý theo quy định của pháp luật.
KTNN cũng đã kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với Bộ Y Tế, Bộ Lao động Thương binh và xã hội, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tại các địa phương; HĐND và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương./.
- Hệ thống hóa pháp luật để người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận
- Sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ
- Sửa quy định về sử dụng kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia
- Sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ
- Sửa đổi Luật Việc làm: Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
- Đường, cầu đường bộ có thời gian sử dụng tính hao mòn là 40 năm
- Đường, cầu đường bộ có thời gian sử dụng tính hao mòn là 40 năm
- Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 11/2024
- Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 11/2024